Chí nam nhi đại trượng phu từ thời xa xưa, thời quân chủ chuyên chế, phong kiến vua chúa ngày xưa, đạo Nho được tôn vinh và được lấy làm chuẩn mực để đánh gía về con người và chất lượng cuộc sống thời đại đó. Có rất nhiều những tư tưởng, quan niệm khác nhau về mọi lĩnh vực trong đời sống trong đó phải kể đến về quan niệm chữ Nam nhi trong thời xưa. Chính vì thời đại như thế nên nền văn học dân tộc cũng tác động không ít về cả tư tưởng lẫn quan niệm, nội dung, đề tài, chủ đề văn học bấy giờ. Hầu hết các thi ca trung đại bấy giờ đều quan niệm “thi dĩ ngôn chí, văn dĩ tải đạo”. Một trong những bài thơ tiêu biểu cho điều đó chính là bài “Bài ca ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ. Dưới đây mình sẽ hướng dẫn các bạn soạn bài Bài ca ngất ngưởng lớp 11.
SOẠN BÀI BÀI CA NGẤT NGƯỞNG LỚP 11.
I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả
- Nguyễn Công Trứ (1778 – 1858), người làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Xuất thân trong gia đình nho học
- Ông cần cù, say mê học hành nhưng thi cử lận đận, đến 41 tuổi đậu giải nguyên và ra làm quan dưới triều Nguyễn
- Là người tài năng, nhiệt huyết ở nhiều lĩnh vực, là người yêu nước, thương dân
- Sáng tác của ông hầu hết viết bằng chữ Nôm, thể thơ đường luật và hát nói. Ông để lại trên 50 bài thơ, ca trù và một bài phú nổi tiếng Hàn nho phong vị phú.
2. Bài thơ
- Hoàn cảnh sáng tác: bài thơ được viết sau năm 1848 là năm ông cáo quan về vườn, lúc đó ông ngoài 70 tuổi
- Thể thơ: hát nói
- Đề tài: lời tự thuật độc đáo về cái tôi ngông nghênh, khinh đời, ngạo thế, sự đối lập giữa bậc tài danh có phẩm cách nhà nho chân chính với tầng lớp phong kiến bất tài
II. Hướng dẫn soạn bài Bài ca ngất ngưởng đọc hiểu chi tiết
Câu 1 trang 89 SGK ngữ văn 11 tập 1:
Ngất ngưởng là một từ láy tượng hình vốn được dùng chỉ sự vatah ở độ cao chênh vênh, bất ổn định. Ở bài thơ này, từ ngất ngưởng được dùng với nghĩa chỉ sự khác thưởng, vượt lên coi thường dư luận. Ngoài nhan đề, từ ngất ngưởng được nhắc lại 4 lần ở cuối các khổ thơ trở thành biểu tượng cho phong cách sống, thái độ sống vượt lên thế tục, một lối chơi ngông nghênh thách thứ xung quanh trên cơ sở nhận thức rõ tài năng và nhân cách cá nhân.
- Từ ngất ngưởng thứ nhất chỉ sự thao lược, tài năng và phong cách ngạo nghễ khi làm quan của Nguyễn Công Trứ
- Từ ngất ngưởng thứ hai chỉ sự ngang tàng của tác giả khi làm dân thường
- Từ ngất ngưởng thứ ba khẳng định cái chơi ngông hơn người của Nguyễn Công Trứ, ông dẫn các cô gái trẻ lên chàu, đi hát ả đào…và tự đánh giá cao các việc làm ấy.
- Từ ngất ngưởng cuối cho thấy tác giả hơn người là vì dám coi thường công danh phú quý, coi thường cả dư luận khen chê, thỏa thích vui chơi bất cứ thú gì, không vướng bận đến sự rang buộc bản thân.
Câu 2 trang 89 SGK ngữ văn 11 tập 1:
Nguyễn Công Trứ biết làm quan là mất tự do. Ông coi chốn quan trường là cái lồng giam hãm con người. Thế nhưng ông vẫn ra làm quan vì ông quan niệm đó là nơi thể hiện tài năng và nhiệt huyết cho xã hội, cho triều đình và cho đạo vua tôi nên ông có quyền ngất ngưởng nhất trong triều. Tóm lại, ngất ngưởng thực chất là một phong cách sống tôn trọng sự trung thực, tôn trọng cá tính, không chấp nhận sự khắc kỉ phục lễ, uốn mình theo lễ và danh của Nho giáo.
Câu 3 trang 89 SGK ngữ văn 11 tập 1:
Trong bài thơ tác giả tự kể về mình, tự thuật, đánh gía bản thân. Giọng điệu tự thuật khẳng khái, đầy cá tính đã cho thấy ông song phẳng, thẳng thắn và có ý thức về cách sống của mình. Nguyễn Công Trứ tự hào vì có một cuộc sống hoạt động tích cực trong xã hội. Ông cũng tự hào vì mình dám sống cho mình, bỏ qua sự ò bó của lễ và danh giáo
Câu 4 trang 89 SGK ngữ văn 11 tập 1:
Thể hát nói phát triển mạnh bắt đầu từ những năm đầu thế kỉ XIX. Nhiều nhà nho, nhà thơ gửi gắm tâm sự mình trong những sáng tác bằng thể hát nói. Nhờ đó, thể loại này phát triển nhanh chóng và chiếm vị trí độc tôn trong thời gian dài, trở thành khuynh hướng văn học thời đại.
So với thể thơ đường luật gò bó, chật chội, hát nói phóng khoáng và tự do hơn nhiều. Hát nói có quy định về số cây, về cách chia khổ nhưng nhìn chung người viết hoàn toàn có thể phá cách để tạo nên tác phẩm tự do về số câu, số chữ, cách gieo vần, nhịp điệu… Sự phóng khoảng của thể thơ đặc biệt thích hợp việc chuyển tải những quan niệm nhân sinh của những nhà nho khao khát khẳng định chính mình, sống theo mình, coi thường những rang buộc của lễ nghi, của xã hội.
III. Luyện tập bài ca ngất ngưởng.
Sự khác biệt về từ ngữ giữa bài “Bài ca ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ và bài “bài ca phong cảnh Hương Sơn” của Chu Mạnh Trinh
- Ngôn ngữ của bài ca ngất ngưởng vừa phù hợp nội dung vừa phù hợp với phong cách của Nguyễn Công Trứ. Nó phóng khoáng, tự so, có chút ngạo nghễ
- Ngôn ngữ của Bài ca phong cảnh Hương Sơn nhẹ nhàng, thấm đẫm ý vị thiền và niềm say mê phong cảnh thiên nhiên đất nước.
Nguồn Internet
Ghi Nguồn bài viết: Soạn bài Bài ca ngất ngưởng lớp 11 – Tại – Hoami.edu.vn
Chuyên Mục Văn Mẫu Lớp 11
Trả lời