Núi cao lên đến tận cùng (Về bài thơ Đi đường của Hồ Chí Minh) – bình giảng ngữ văn 8
Núi cuối non (Về bài thơ Đi đường của Hồ Chí Minh) – nghị luận ngữ văn 8
Dạy
Ngọn núi cao đến tận cùng
Đi trên đường là một trong những bài thơ tiêu biểu của tuyển tập nhật ký trong tù. Vì với bao nỗi khổ đói, rét, ốm, đau… mà người tù nào cũng phải chịu, và những cực hình đày từ nhà tù này sang nhà tù khác, thì chỉ có một mình Bác chịu đựng cảnh đày ải. Tuy nhiên, chính trong cảnh phải chịu một hình phạt vô lý và điển hình này, phẩm chất của người quản ngục (với tư cách là Bác) càng được tỏa sáng. Bác đã lập được một kỷ lục mới: chiến thắng hoàn cảnh, chiến thắng chính mình và điều đó không còn gì phải sợ nữa. Đó là chiến thắng của ý chí, một ý chí phi thường để con người được mệnh danh là Nhân loạiCon người tư bản hóa theo ý chí của Gorki như một vầng hào quang thánh thiện.
Bài thơ theo lối phân đoạn tự nhiên gồm hai phần: hai câu đầu tả cảnh, hai câu cuối tả tình. Nhưng hình thức này phân chia với trường hợp Đi trên đường hơi máy móc. Thủ pháp tả cảnh ngụ ngôn như hát đứt đôi chạy suốt bài thơ, không có câu nào chỉ tả cảnh. Tình đã hòa vào cảnh, qua đoạn thơ tả cảnh ta mới thấy hết một khuôn mặt con người, một con người chưa có mặt trong văn học phương Đông, đặc biệt là sự có mặt đó trong câu thơ tứ tuyệt:
Trên đường đi biết gian khổ,
Đọc câu thơ tưởng như nhẹ nhõm này, ta như thấy sức mạnh ngàn cân. Ý thơ và lời ca không mới, nhưng nếu đặt trong hoàn cảnh cụ thể của hành trình hơn một năm trong xiềng xích ngục tù của Bác, chúng ta có thể thông cảm và thấu hiểu. Đi trên đường ở đây là đi trong mọi điều kiện thời tiết, địa hình. Thời tiết mưa nhiều hơn nắng, đường miền núi nên gập ghềnh, nhất là khi trời còn tối, có khi một, hai giờ sáng đã phải đi. Đã có lúc nguy hiểm không còn là tưởng tượng: “Trượt ngã xuống hố – May nhảy ra suýt rơi“(Ngã ). Một từ công việc khó khăn chú đó”biết” như thế. Nó chứa đựng nhiều thử thách, nó đối mặt với ý chí con người mà chỉ những người “đi đường” mới biết. Bằng thể thơ nhật ký, không một chút hoa mỹ, cường điệu, nhất là ở những bức chân dung tự họa, câu thơ đọc lên có cả ngàn rung động từ những cảm xúc có thật. Cái sự thật ấy với cách nói giản dị không khỏi khiến người đọc rùng mình. Ấn tượng về gian khổ trong nguyên tác rõ nét hơn trong bản dịch bởi nó có nhịp điệu riêng, nhịp điệu riêng lặp đi lặp lại như một tứ thơ tự truyện:
Khám phá tài năng của mình, ẩn trong vô vọng
Hai chữ “thoát xác” (đi) như nốt nhạc bên phải (nhịp 4/3) vừa là lời nhận xét, vừa là sự chiêm nghiệm đầy trăn trở trong chính máu thịt của mình. Cảm hứng không cố ý trong câu thơ ngắn gọn, dồn nén mà cứ tự bật ra mà không cần nhiều từ. Tính giản dị trong thơ là thế, nói ít không phải là không có gì để nói mà ngược lại: nội dung phong phú, lời như không. Nguyên tắc kiệm lời trong thơ có phải như vậy không? Về ý nghĩa của câu này, tục ngữ đã có câu: “Đi một ngày đàng, học một sàng khôn”. Bác cũng đang học, đang “biết” qua cảnh ngộ của mình, rút ra bài học cho mình: đi đường mới biết đi đường khó. Một chữ tri (biết) đơn giản đến mức học cả đời cũng không được, chẳng hạn như nỗi khổ của người công nhân làm đường rất xa lạ với một người qua đường:
Xe khách thường xuyên qua lại,
Có bao nhiêu người có thể cảm ơn bạn!
(Phú làm đường)
Câu thứ hai trong bài Đi trên đường như phát triển ý, minh hoạ cho câu thơ đầu:
Núi cao rồi lại núi cao
Cảnh ở đây là cảnh núi, chỉ núi và núi. Núi kết hợp với sông trong tranh cổ là bức tranh sơn thủy hữu tình. Nhưng những ngọn núi ở đây không nằm trong hệ thống nghệ thuật đó. Nó trần trụi những nhọc nhằn mà người qua đường ngần ngại. Xấu hổ cũng phải. Đây là một chi tiết cảm xúc rất thực, được thể hiện qua nhịp điệu”Trùng Khánh san côn trùng ngoại sinh“. Giữa hai từ trùng điệp được sắp xếp ở đầu và cuối câu như một sự bao bọc là một từ huých (lại). Vừa vượt qua dãy núi cao này chưa kịp nghỉ ngơi thì dãy núi cao khác lại hiện ra, thử hỏi lòng ai có thể bình yên, thư thái. Một chữ huých giản dị mà bao hàm, nặng trĩu tâm tư của người chinh phụ. Núi ở đây không đồng nghĩa với đẹp và hùng. Thậm chí, có khi qua một cảnh vật nào đó mà lòng người không yên, nỗi băn khoăn ấy trong thơ còn hiện lên rõ nét:
Quế Lâm không có quế, không có rừng,
Sông sâu thăm thẳm, núi cao sừng sững.
(Đến Quế Lâm)
Chặng đường trong bài thơ đến câu thứ ba vẫn chưa hết, thậm chí còn phải vượt qua một đỉnh cao khác mà mọi thứ đều “trùng phùng”:
Núi cao đến tận cùng,
Trong thơ tứ tuyệt truyền thống phương Đông, câu thơ thứ ba là một sự chuyển tiếp: chuyển cảnh, đổi tình. Ý thức được vị trí đặc biệt của mình như một kiểu cầu nối trong mạch thơ, câu thơ về ngọn núi cao ấy một mặt là sự nối tiếp của hai vế trước, tiếp tục và cao dần lên. Cảm từ lấy đà ấy từ nhịp thơ. Chúng tôi nhận thấy hai từ côn trùng ở câu hai và câu ba đầy ý tứ:
giun ngoại sinh Trùng Khánh ;
Chongsan đăng phong cách cao độc đáo
Mật độ của nó vốn đã dày nay lại càng dày hơn. Cũng là truyện ngụ ngôn nhưng côn trùng Cuối câu thứ hai và đầu câu thứ ba có sự điệp ngữ liên hoàn, lặp lại. Nhịp thơ không còn chậm rãi, đều đều. Nó khẩn cấp hơn, có phần tao nhã hơn như một sự chuẩn bị. Chìm trong câu thơ một hồn nhạc khác, xao xuyến. Vì vậy, những gì xảy ra sau đó? Một sự sụp đổ? Một chiến thắng?
Vào mắt cả nước non
Với người đọc, có thể thở phào nhẹ nhõm, vì trút được gánh nặng ngàn cân trong lòng. Nó khác với người đi bộ. Trong chớp mắt, tình thế đã thay đổi, tâm trạng đã thay đổi, cán cân lực lượng tinh thần giữa người đi đường và gian khổ trên đèo dốc đã đổi chiều ngược lại. Vẫn là núi non trùng điệp nhưng giờ đây chúng không còn đơn điệu mà đẹp hơn. Không vô cảm, mà có hồn. Sâu núi đã trở lại”tất cả các loại nước non“. Tập hợp tất cả mọi thứ”côn trùng“một lần nữa, theo một cách khác, chúng trở thành”dư vạn li“Lộng lẫy, hùng vĩ, đẹp đẽ! Tư thế của người qua đường – từ thân phận nạn nhân trở thành chủ nhân – đã tạo cho núi rừng một bộ mặt khác. Khách bộ hành năng động đã thu vào mắt cả núi niềm vui vô hạn. Hạnh phúc dạt dào không gì sánh bằng, đó là niềm vui chinh phục hoàn cảnh – một hoàn cảnh đầy núi cao thử thách, nhất là vì chinh phục được chính mình.Nhà thơ-người tù lúc này mới xuất hiện.Dấu ấn của nhà thơ là thổi sức sống vào cảnh vật, thổi bùng lên một sức sống kì diệu từ bản tính vô cảm, hạnh phúc ở đây không tự nhiên mà đến, phải chăng những gì chàng nghĩ khi mới vào ngục tối chỉ là một ước mơ, một quyết tâm, nay đã trở thành hiện thực:
Cơ thể ở trong ngục tối,
Tinh thần ở ngoài lao động;
Muốn có một sự nghiệp tuyệt vời,
Tinh thần phải cao hơn.
Quả thật tinh thần của người tù cao hơn núi. Chính Bác đã làm chứng cho mình, bằng chính con người của mình. Một trải nghiệm thầm lặng nhưng bền bỉ, đúng là “Kiên trì bền bỉ – Không lùi một tấc”. Chính vì không chịu lùi bước, dù chỉ một li, mà anh ấy đã thắng.
Như chúng ta đã biết, trong thơ Hồ Chí Minh ít dùng đại ngôn, tránh nói ồn ào. Vậy mà biết bao tư tưởng kết tinh từ cách sống của một bậc hiền nhân có tầm nhìn rộng và sâu về nhiều mặt về con người, trong đó có mình. Một triết gia, nhà hiền triết đã nói: “Tất cả những gì thuộc về con người đều không xa lạ với tôi”. Bác cũng làm như vậy, chứng minh chân lý ấy bằng một bài thơ nhỏ, một trang nhật ký hành trình.
xem thêm nhà thơ trăng
Theo Nhungbaivanhay.vn
Từ khóa tìm kiếm:
- https://nhungbaivanhay vn/nui-cao-len-den-tan-cung-ve-bai-tho-di-duong-cua-ho-chi-minh-binh-giang-ngu-van-8 html
Bạn thấy bài viết Núi cao lên đến tận cùng (Về bài thơ Đi đường của Hồ Chí Minh) – bình giảng ngữ văn 8 có giải quyết đươc vấn đề bạn tìm hiểu không?
Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường Họa Mi
Chuyên mục: Văn Mẫu Hay
Nguồn: Họa Mi