Người lao động và người sử dụng lao động theo quy định pháp luật

Bộ luật Lao động 2019 giải thích thuật ngữ Người lao động và Người sử dụng lao động nhằm đảm bảo sự thống nhất trong nhận thức khi áp dụng các quy định của Bộ luật Lao động trên thực tế, tránh nhầm lẫn hoặc có cách hiểu khác nhau.
- công nhân
Khoản 1 Điều 3 Bộ luật Lao động 2019 quy định:
Người lao động là người làm việc cho người sử dụng lao động theo thoả thuận, được trả lương và chịu sự quản lý, điều hành, giám sát của người sử dụng lao động. Tuổi lao động tối thiểu của người lao động là đủ 15 tuổi, trừ trường hợp quy định tại Mục 1 Chương XI của Bộ luật này.
Người lao động với tư cách là một bên trong quan hệ lao động do Bộ luật Lao động điều chỉnh nên có những dấu hiệu đặc trưng để nhận biết họ so với người lao động nói chung.
Thứ nhất, về độ tuổi phải từ đủ 15 tuổi trở lên, có sức khỏe và nhận thức bình thường. Tuy nhiên, tùy theo tính chất đặc thù của công việc, ngành nghề mà độ tuổi của NLĐ có thể dưới 15 tuổi, có trường hợp trên 15 tuổi vẫn chưa được tham gia quan hệ lao động. Việc quy định như vậy một mặt nhằm bảo đảm quyền tự do làm việc của công dân, mặt khác nhằm bảo vệ người lao động chưa thành niên khi tham gia quan hệ lao động.
Thứ hai, người lao động làm việc cho người sử dụng lao động theo thỏa thuận và được trả lương. Như vậy, cơ sở pháp lý để xác định việc tham gia quan hệ lao động là sự thỏa thuận của người lao động và người sử dụng lao động.
Trong các Bộ luật Lao động trước đây, hình thức pháp lý của quan hệ lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động được xác định là hợp đồng lao động. Tuy nhiên, với quy định hiện hành trong Bộ luật Lao động thì trên cơ sở thỏa thuận tự nguyện của các bên dù dưới hình thức pháp lý nào cũng đủ cơ sở xác định sự tồn tại của quan hệ lao động. .
Quy định này nhằm tránh tình trạng lạm dụng hình thức hợp đồng trong quan hệ lao động, chẳng hạn thay vì ký kết hợp đồng lao động thì các bên thỏa thuận bằng các hình thức pháp lý như: hợp đồng dịch vụ, hợp đồng cộng tác. hợp đồng lao động, chuyên gia… để trốn tránh các nghĩa vụ trong quan hệ lao động (ví dụ: BHXH, BHYT, BHTN).
Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là Bộ luật Lao động điều chỉnh tất cả các quan hệ hợp đồng trên thị trường lao động, nhưng hợp đồng lao động vẫn có một vị trí quan trọng trong Bộ luật Lao động. Tiền lương là một trong những dấu hiệu để phân biệt việc trả công của người lao động trong quan hệ công vụ và quan hệ lao động do pháp luật lao động điều chỉnh. Tiền lương trong quan hệ lao động được điều chỉnh chặt chẽ bởi pháp luật, thỏa ước tập thể và thường được trả định kỳ theo thời gian (tuần, tháng).
Thứ ba, người lao động chịu sự quản lý, điều hành, giám sát của người sử dụng lao động. Đây là dấu hiệu cơ bản để phân biệt quan hệ lao động do luật lao động điều chỉnh với các quan hệ có nội dung tương tự về lao động trên thị trường.
Quan hệ lao động do luật lao động điều chỉnh nói chung là quan hệ xã hội hóa, hợp tác hóa và chuyên môn hóa. Mỗi người lao động tham gia quan hệ thực hiện nghĩa vụ của mình trên cơ sở cam kết trong hợp đồng cá nhân, nhưng kết quả cuối cùng của quá trình lao động là sự phối hợp, thống nhất, đồng bộ của cả tập thể lao động. . Vì vậy, khi tham gia quan hệ lao động, người sử dụng lao động là người chịu trách nhiệm tổ chức quá trình lao động nên có quyền đưa ra mệnh lệnh, yêu cầu, đòi hỏi và ràng buộc với người lao động thông qua các quy chế, nội quy, cam kết tập thể, thỏa thuận cá nhân.. .và người lao động có nghĩa vụ phải thực hiện.
Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng, trong mọi quan hệ hợp đồng, chỉ trong quan hệ hợp đồng giữa người lao động và người sử dụng lao động, một bên có quyền ra lệnh (người sử dụng lao động) và bên kia (người lao động) có nghĩa vụ phải thực hiện. . Vì vậy, để tránh sự bất bình đẳng trong mối quan hệ này, pháp luật lao động đã có những ràng buộc chặt chẽ đối với quyền quản lý của người sử dụng lao động.
Ngoài ra, do đây là dấu hiệu quan trọng nhất để đánh giá một quan hệ có thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật lao động hay không trong bối cảnh Bộ luật Lao động 2019 đã có sự thay đổi trong nhận thức về phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng. .. thì các tiêu chí, tiêu chuẩn để xác định yếu tố quản lý, điều hành, giám sát của NSDLĐ sẽ là thách thức lớn đối với cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền, cơ quan tài phán (Thanh tra lao động, Tòa án nhân dân…), trong khi các bộ luật lao động trước đây ( BLLĐ 1994, 2012) đến nay (BLLĐ 2019) chưa có quy định cụ thể về vấn đề này và chưa có tiền lệ.
- Nhà tuyển dụng
Khoản 2 Điều 3 Bộ luật Lao động 2019 quy định:
Người sử dụng lao động là doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, hợp tác xã, hộ gia đình, cá nhân thuê mướn, sử dụng người lao động làm việc cho mình theo thỏa thuận; Trường hợp người sử dụng lao động là cá nhân thì phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.
Chủ thể là người sử dụng lao động có phạm vi rất rộng: Là pháp nhân hoặc tổ chức, cá nhân. Điều kiện pháp lý cho sự xuất hiện của từng nhóm chủ thể này có thể khác nhau và theo quy định của các luật chuyên ngành (Luật Doanh nghiệp, Luật Hợp tác xã, Bộ luật Dân sự…). Qua đó cho thấy, để doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, hợp tác xã, hộ gia đình tham gia quan hệ lao động với tư cách là người sử dụng lao động thì các chủ thể nêu trên phải xuất hiện, thành lập, hoạt động hợp pháp, tuân thủ các quy định của pháp luật chuyên ngành có liên quan.
Trường hợp người sử dụng lao động là cá nhân thì phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của pháp luật dân sự. Mục đích của quan hệ việc làm ở đây là thuê và sử dụng người lao động nên năng lực thực hiện hành vi này là yếu tố quan trọng quyết định tư cách của người sử dụng lao động. Cơ sở pháp lý của mối quan hệ là thông qua sự tự nguyện thỏa thuận của hai bên đối với việc sử dụng, thuê mướn lao động có trả lương và quyền quản lý, giám sát, điều hành công ty. nhà tuyển dụng.
- Người lao động không có quan hệ lao động
Khoản 6 Điều 3 Bộ luật Lao động 2019 quy định: Người làm việc không có quan hệ việc làm là người làm việc không theo hợp đồng lao động.
Người lao động không có quan hệ việc làm là nhóm đối tượng mới là đối tượng áp dụng của Bộ luật Lao động. Theo đó, nhóm đối tượng này là người làm việc theo hình thức công vụ thỏa thuận, lao động tự do, xã viên…
Về lao động, họ là người tự sắp xếp công việc, tự điều hành quá trình lao động… và do đó, về nguyên tắc, họ phải tự chịu trách nhiệm cũng như được hưởng những lợi ích phát sinh trong mối quan hệ mà họ có được. tham gia. Tuy nhiên, tùy theo nội dung cụ thể của quan hệ mà áp dụng các quy định của Bộ luật Lao động cho phù hợp với nhóm đối tượng này.
Người lao động và người sử dụng lao động theo quy định pháp luật
Tại Hoami.edu.vn
Chuyên mục: Kiến Thức Doanh Nghiệp