Chứng minh nhà thơ Tế Hanh gửi nỗi niềm vào bài thơ Quê hương – Đề và văn mẫu 8

Chứng minh nhà thơ Tế Hanh đã gửi gắm tình cảm của mình vào bài thơ Quê hương – Đề và bài văn mẫu 8

Dạy


Phân công

Nỗi nhớ quê hương phương xa đã trở thành một cảm xúc dâng trào, lung linh suốt đời cho Tế Hanh. Xóm chài nghèo trên một cù lao trên sông Trà Bồng, bao bọc bởi một ngày cách xa biển cả, đã nuôi dưỡng hồn thơ Tế Hanh, trở thành điểm tham chiếu để ông viết nên những vần thơ say đắm. Trong dòng cảm xúc ấy, quê hương là một thành công khởi đầu rực rỡ.

Có lẽ nhà thơ đã viết Quê hương bằng cả trái tim yêu thiên nhiên thơ mộng, hùng vĩ, yêu những con người cần cù, bằng những kỉ niệm nồng nàn nhất. Khi trời trong gió, buổi sáng màu hồng; Thanh niên trong làng bơi thuyền ra khơi đánh cá, hình ảnh mái chèo căng buồm no gió:

Thuyền nhẹ như ngựa.

Phăng mái chèo, căng vượt sức mạnh.

Cánh buồm rộng, lớn như hồn làng.

Vươn thân trắng bao la gom gió.

Giữa non nước bao la, hình ảnh con thuyền kiêu hãnh, khỏe khoắn dưới bàn tay điều khiển khéo léo của chàng trai đang nhẹ nhàng lướt trên sóng qua hình ảnh so sánh như chú ngựa tuấn mã. Bằng những ngôn từ sinh động, nhà thơ đã khắc họa được tư thế kiêu hãnh chinh phục sông dài, biển rộng của người làng chài. Thơ như băng tiến về phía trước, như vươn tới trời với con thuyền, với cánh buồm! Tế Hanh đã cảm nhận cuộc sống lao động của làng quê bằng cả tâm hồn nên ông nghĩ: Cánh buồm rộng, lớn như hồn làng. Bao nhiêu tình cảm thiêng liêng, bao nhiêu hy vọng về cuộc sống mưu sinh của người lao động đều được gửi gắm vào đó. Ngay cả khung cảnh ồn ào đáng yêu khi chào đón thành quả lao động cũng được miêu tả là vui tươi:

Xem thêm: Phân tích hình ảnh ông Đồ trong bài thơ Ông Đồ của Vũ Đình Liên

Ngày hôm sau ồn ào trên bãi đậu xe.


Cả làng xúm lại đón thuyền về.

Nhờ trời biển êm, thuyền đầy cá.

Cá tươi có thân màu trắng bạc.

Ở đoạn trước, khi tả cảnh đoàn thuyền ra khơi mạnh mẽ qua sông dài, lời ca băng băng, phơi phới. Đến đây, âm điệu của bài thơ giãn ra và dần lắng xuống trước niềm vui của dân làng theo những con thuyền trở về nằm yên trên bến. Chính từ đây đã làm nổi lên những câu thơ hay nhất, tinh tế nhất về quê hương:

Người đánh cá có làn da rám nắng.

Toàn cơ thể có mùi của sự xa cách.

Con thuyền thấm mệt quay về nằm.

Nghe chất muối thấm vào da thịt.

Chỉ có con dân chài mới làm được những vần thơ như vậy. Tế Hanh như tạc tượng người đánh cá giữa trời lộng gió với hình dáng, màu sắc, hương vị không lẫn vào đâu được. Tượng đài mang đậm hương vị của sự xa cách – vị mặn mòi của biển cả, của những chân trời bao la mà họ vẫn thường chinh phục. Vị muối mặn ấy ngấm vào cơ thể ngư dân quê, thấm dần vào vỏ thuyền hay thấm sâu vào da thịt, vào tâm hồn Tế Hanh để trở thành thứ cảm xúc ma mị, bâng khuâng. Một tâm hồn như vậy, khi khao khát, không thể nhẹ và tầm thường. Những hình ảnh quê hương đã trở thành kỉ niệm ám ảnh, vẫy gọi: Nhớ hương mặn quá – câu thơ cuối thể hiện rõ tâm hồn tha thiết, chân chất của Tế Hanh.

Xem thêm: Suy nghĩ về văn bản Mẹ tôi của Esmondo de Amixis

Quê hương Tế Hanh đã hát lên câu hát trong trẻo, thiết tha về làng chài đã từng ôm ấp, ru ngủ tuổi thơ tôi. Bài thơ đã góp phần bồi đắp thêm tình yêu quê hương cho mỗi người đọc.

Tags:Văn 8

Theo Nhungbaivanhay.vn


Bạn thấy bài viết Chứng minh nhà thơ Tế Hanh gửi nỗi niềm vào bài thơ Quê hương – Đề và văn mẫu 8 có giải quyết đươc vấn đề bạn tìm hiểu không?

Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường Họa Mi

Chuyên mục: Văn Mẫu Hay

Nguồn: Họa Mi

Related Articles

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Back to top button