“Cảnh… giờ.”… Giải thích ngắn gọn cách hiểu của em về hai câu thơ trên, từ đó phân tích tám câu thơ cuối cùng của đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích… để làm nổi bật bút pháp tả cảnh ngụ tình đã đạt đến thành công tuyệt vời của thiên tài Nguyễn Du
Các bài văn mẫu lớp 9
“Cảnh…bây giờ.”…Nêu ngắn gọn cách hiểu của em về hai câu văn trên, sau đó phân tích tám câu thơ cuối đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích… để làm nổi bật phong cách của cảnh ngụ ngôn đã hoàn thành. đến thành công vĩ đại của thiên tài Nguyễn Du
“Cảnh…bây giờ.”…Nêu ngắn gọn cách hiểu của em về hai câu văn trên, sau đó phân tích tám câu thơ cuối đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích… để làm nổi bật phong cách của cảnh ngụ ngôn đã hoàn thành. đến thành công vĩ đại của thiên tài Nguyễn Du
Dạy
Đề tài:
Cảnh nào không mang nỗi buồn
Cảnh buồn người vui có bao giờ.
(Truyện Kiều – Nguyễn Du) Hãy trình bày ngắn gọn những hiểu biết của em về hai câu thơ trên, sau đó phân tích tám câu thơ cuối của đoạn văn. Kiều ở lầu Ngưng Bích (trích đoạn.) Truyện Kiều, sách giáo khoa văn 9, tập 1) để nêu bật thành công vĩ đại của thiên tài Nguyễn Du.
Phân công:
Một trong những yếu tố tạo nên sự thành công của kiệt tác “Truyện Kiều” của Nguyễn Du chính là thiên hướng đặc sắc trong việc tả cảnh ngụ tình. Đại thi hào đã có hai câu thơ rất hay để tổng kết phong cách nghệ thuật tài tình này:
“Cảnh gì không đeo cánh?
Cảnh buồn người vui có bao giờ”.
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Đạt được thành công lớn của thiên tài Nguyễn Du trong lối viết này là tám câu thơ cũ trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích (trích đoạn.) Truyện Kiều, SGK TCCN 9 tập 1):
“Buồn nhìn khung cửa nát chiều
Một con thuyền căng buồm thấp thoáng phía xa?
Buồn khi nhìn thấy nước mới
Hoa trôi về đâu?
Thật buồn khi nhìn buồn
Chân mây trên mặt đất một màu xanh
Buồn khi thấy gió thổi vào mặt
Âm thanh lớn của sóng xung quanh chỗ ngồi.”
Bản thân tên gọi của phong cách đã hàm chứa phương thức biểu đạt “tả cảnh” nhưng “ngụ ý”. Nghĩa rõ ràng của từ láy là miêu tả thiên nhiên, cảnh vật nhưng qua đó nhà thơ muốn gửi gắm tình, nghĩa của nhân vật trữ tình. Như trong hai câu thơ sau:
“Cảnh nào không đeo sầu
Cảnh buồn người vui có bao giờ”.
Nhà thơ đã khẳng định mối quan hệ mật thiết giữa cảnh và tình: cảnh theo tình, cảnh buồn thì tình cũng buồn. Và như thế, bức tranh phong cảnh trở thành bức tranh tâm trạng.
Trong tám câu thơ cuối của đoạn văn Kiều ở lầu Ngưng Bích, Nguyễn Du đã vận dụng thành công bút pháp tả cảnh ngụ ngôn.
Cảnh được miêu tả theo phương thức bậc hai trong con mắt nhìn bốn phía và từ xa đến gần. Cảnh đầu tiên mà Kiều nhìn vào là cảnh tan cửa nát trong một buổi chiều:
Buồn khi chiều đổi thay
Một con thuyền căng buồm thấp thoáng phía xa
Không gian bao la và thời gian khi hoàng hôn buông xuống vĩnh hằng luôn gợi lên nỗi buồn, sự cô đơn. Giữa khung cảnh ấy, cánh buồm “lênh đênh” vô định hiện ra như một ảo ảnh. Hình ảnh cánh buồm dễ làm ta liên tưởng đến những chuyến đò xuôi ngược bến bờ quê hương. Khung cảnh gợi lên trong lòng người xa xứ nỗi nhớ da diết cha mẹ, quê hương xa cách, nỗi cô đơn và niềm mong mỏi ngày đoàn tụ.
Trên mặt nước mênh mông của biển cả bồng bềnh, những cánh hoa trôi trên mặt nước gợi lên trong lòng Kiều nỗi xót xa cho thân phận chiếc bình không biết sẽ bị trôi dạt hay vùi dập:
Buồn khi nhìn thấy nước mới
Hoa trôi về đâu
Cảnh khiến Kiều xót xa cho số phận, con số Cuộc sống của anh ấy. Sau một cửa biển, một cánh hoa giữa nước là một cảnh cỏ nội:
Thật buồn khi nhìn buồn
Chân mây xanh đất xanh
Cả một thảm cỏ bao la, nhưng khác với thảm cỏ ngày khai quang: “cỏ non xanh rợn chân trời” là màu cỏ “buồn” – một màu vàng gợi sự héo úa, buồn bã. Màu xanh nhạt trải dài từ mặt đất đến chân mây không phải là màu của sự sống hi vọng mà chỉ gợi lên sự buồn chán vô vọng bởi cuộc sống vô vị, buồn chán, cô đơn không bao giờ kết thúc này. . Khung cảnh mờ ảo như tương lai tăm tối, thân phận hèn nhát bên trong của Thúy Kiều. Và cuối cùng là cảnh sóng vỗ sau gió:
Buồn khi thấy gió thổi vào mặt
Tiếng sóng vỗ quanh ghế
Tiếng sóng như báo trước những giông tố khốc liệt của cuộc đời hay cũng chính là tiếng kêu đau của Kiều vang vọng cùng thiên nhiên. Kiều không chỉ buồn mà còn sợ hãi, khiếp sợ như đứng trước sóng gió, giông bão của cuộc đời sắp ập xuống đầu. Cảnh vật được miêu tả từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động. Cảnh vật ngày càng rõ hơn để diễn tả nỗi buồn từ hoang mang mơ hồ đến lo lắng sợ hãi đến nội tâm giông bão. Thiên nhiên chân thực, sống động nhưng mờ ảo vì được nhìn theo quy luật “cảnh không buồn, người buồn bao giờ vui”. Và nó cũng là hiện thân, chứng tích của quá khứ đau thương, của hiện tại cô đơn bất hạnh, và báo trước một tương lai khủng khiếp. Tất cả chỉ là hình ảnh của sự bấp bênh, mong manh, vô vọng, trôi dạt, bế tắc.
Bên cạnh những từ gợi hình, từ tượng thanh, tượng hình, bài thơ còn thành công trong việc sử dụng phép láy “buồn trông”. Câu này được Nguyễn Du mượn trong ca dao:
“Thật buồn khi thấy con nhện giăng tơ…
Thật buồn khi thấy sự khác biệt trong sao mai…”
Bốn cặp lục bát cũng là bốn cảnh, các cặp câu liên kết với nhau bằng lối ám chỉ truyền thống:
Chiều buồn nhìn cửa biển
Buồn khi nhìn thấy nước mới
Buồn nhìn cỏ mỡ
Buồn khi thấy gió thổi vào mặt
“Buồn trông” là nhìn xa xăm mong chờ một điều gì đó mơ hồ sẽ đến để thay đổi hiện tại nhưng nhìn vô vọng. “Buồn trông” có cái bâng khuâng, có cái lạ thu hút tầm nhìn, có cái linh cảm sợ hãi của người con gái lần đầu lạc lõng giữa dòng đời. Điệp ngữ kết hợp với các hình ảnh phía sau và các từ láy đã diễn tả nỗi buồn với nhiều sắc thái khác nhau, tràn ngập lớp lớp như sóng lòng. Tiếng hiệp tạo vần bằng, gợi âm hưởng trầm buồn, da diết, thể hiện nỗi buồn mênh mang, vô vọng vô tận. “Buồn trông” trở thành điệp khúc của câu thơ cũng như điệp khúc của tâm trạng. Với gam màu nhạt và lạnh, Nguyễn Du đã vẽ nên một bức tranh tứ bình tâm trạng vô cùng độc đáo và giàu cảm xúc. Nguyễn Du đã lựa chọn cách thể hiện “cái tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này” thật độc đáo. Bài thơ tuyệt vời với bút pháp tả cảnh ngụ ngôn.
Bút pháp tả cảnh ngụ ngôn là một phong cách nghệ thuật tinh tế và độc đáo. Cần có sự đồng cảm tri kỷ với nhân vật trữ tình thì mới đạt đến độ chín của lối viết. Và như vậy, với việc vận dụng thành công thủ pháp nghệ thuật này trong việc thể hiện tâm trạng “Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích”, Nguyễn Du đã bộc lộ một tâm hồn nhạy cảm, đa diện và một tâm hồn nhân hậu tuyệt vời. Tuyệt.
Thu Trang
Bạn thấy bài viết “Cảnh… giờ.”… Giải thích ngắn gọn cách hiểu của em về hai câu thơ trên, từ đó phân tích tám câu thơ cuối cùng của đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích… để làm nổi bật bút pháp tả cảnh ngụ tình đã đạt đến thành công tuyệt vời của thiên tài Nguyễn Du có giải quyết đươc vấn đề bạn tìm hiểu không?
Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường Họa Mi
Chuyên mục: Văn Mẫu Lớp 9
Nguồn: Họa Mi