Cảm nhận bài thơ Quê hương của Tế Hanh

Cảm nhận bài thơ Quê hương của Tế Hanh

Dạy


Cảm nhận bài thơ Quê hương của Tế Hanh

Quê hương mỗi người chỉ có một

Cũng giống như một người mẹ

Nếu ai không nhớ quê hương

Lớn lên không thành người

(Quê hương-Đỗ Trung Quân)

Trong trái tim mỗi con người không bao giờ vơi đi hình ảnh quê hương – nơi mình sinh ra và lớn lên! Tình yêu quê hương đất nước là tình cảm thiêng liêng của con người và cũng là nguồn cảm hứng bất tận cho văn học nghệ thuật. Ở nhà thơ Tế Hanh, cảm hứng ấy đã chảy suốt cuộc đời và ngay từ những vần thơ đầu tiên của tuổi trẻ, hồn thơ Tế Hanh đã gắn bó với cuộc sống của người dân làng chài ven biển mà bài thơ “Quê hương” là tác phẩm khai mạc. Bài thơ được viết vào năm 1939, khi nhà thơ mới mười tám tuổi là một học sinh trung học xa quê hương.

Trong khi hầu hết các thi sĩ của Thơ Mới đang thở dài với tình yêu vô vọng và cô đơn, thì “quê hương” của Tế Hanh lại cất lên một tiếng nói khỏe khoắn lạ lùng. Trong khi các nhà thơ đồng quê như Bàng Bá Lân, Đoàn Văn Cừ, Anh Thơ đưa người đọc về làng quê Bắc Bộ yên bình, vui tươi với “cổng làng”, “chợ Tết”, “ngày hội”, “bến chiều mưa” với “buổi trưa hè”. ” và “chiều xuân”… Rồi Tế Hanh lại nhớ về một làng chài miền Trung với cuộc sống cần lao nhưng cũng nên thơ. Chính sự “lạc tiếng” này khiến chúng ta càng chú ý hơn đến “quê hương” của Tế Hanh.

Gắn bó với quê hương, trước hết nhà thơ gắn bó với làng chài ven biển quê hương bằng cả tấm lòng yêu thiên nhiên thơ mộng, hùng vĩ:

Ngôi làng tôi sống ban đầu là một ngư dân

Nước bao quanh sông cách biển nửa ngày đường

Lời tỏ tình ngọt ngào sâu lắng về quê hương. “Vốn liếng” đã có từ lâu đời, đã là ngư dân từ lâu đời. Nếu không yêu quê hương, không ngẩng cao đầu tự hào về quê hương thì làm sao Tế Hanh dám nói một cách dứt khoát và giản dị như thế về quê hương mình. Câu thơ thứ hai với các từ “nước”, “biển”, “sông” gợi lên hình ảnh một vùng quê vạn chài gắn liền với sông, biển. Khi nói về làng mình “cách biển nửa ngày sông”, nhà thơ đã dùng phép đo khoảng cách của người dân chài, một cách nói mộc mạc, giản dị.

Xem thêm: Suy nghĩ về văn bản Mẹ tôi của Esmondo de Amixis

Sáu câu đầu, cảm hứng như khơi nguồn, nhà thơ bắt đầu say sưa miêu tả cảnh đẹp quê hương:

Khi trời trong, gió hiu hiu, buổi sáng hồng

Nam thanh niên đi thuyền đánh cá.

Dòng thơ nhẹ nhàng trôi hình ảnh như thi nhau đẩy câu thơ trôi theo dòng cảm xúc. Ngòi bút của nhà thơ chỉ điểm vài nét mà cảnh vật như bừng sáng lên “trời trong, gió nhẹ, buổi mai hồng”. Một ngày làm việc của ngư dân bắt đầu bằng một buổi bình minh trong trẻo, mát mẻ và rực rỡ. Trong không gian sôi động ấy, những ngư dân nô nức lên đường “trai trẻ bơi thuyền ra khơi đánh cá”. Tâm huyết của nhân dân được truyền đến cả “thuyền nhẹ như ngựa”. Con thuyền nhẹ lướt ra khơi trong tư thế của “chú ngựa dũng mãnh” khi những “chàng trai” vạm vỡ, khỏe mạnh, kiên cường khua khua mái chèo hối hả. Đẹp kiêu sa, phóng khoáng, con thuyền được ví như chiến mã vượt thiên lý vạn dặm. Khung cảnh buổi sớm ở làng chài hiện lên đầy rạng rỡ và tráng lệ:

Cánh buồm to như hồn làng

Vươn tấm thân trắng bao la đón gió.

Cánh buồm là vật hữu hình, thân thiết, được ví như “hồn làng”. Đối với Tế Hanh, cánh buồm mong manh như mảnh “hồn làng” nhưng lại nở ra “mênh mông” bởi nó là tâm hồn rộng mở của quê hương. Nhà thơ dùng ba chữ “hồn làng” để gợi lên hồn quê vạn chài. Cánh buồm mang theo những hy vọng và lo lắng của những người dân chài trong cuộc mưu sinh trên sông nước. Tế Hanh nhìn thấy ở những cánh buồm niềm tự hào, kiêu hãnh và sức mạnh của con người trong công cuộc chinh phục biển cả. Những cánh buồm trắng như vươn cao, đón gió trời để bay vào không gian bao la. Những hình ảnh thơ đầy lãng mạn, bay bổng vừa thể hiện bản lĩnh mạnh mẽ, khát vọng chinh phục thiên nhiên của ngư dân, đồng thời thể hiện tình yêu thiết tha, niềm tự hào của nhà thơ về cuộc đời, về cuộc đời. người quê hương.

Xem thêm: Tóm tắt văn bản đánh nhau với cối xay gió


Không chỉ vậy, tình cảm của nhà thơ đối với quê hương còn là sự kính trọng, yêu mến những người lao động giàu nghị lực:

Ngày hôm sau ồn ào trên bến cảng

Dân làng tấp nập đón thuyền trở về.

Khung cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về chân thực đến từng chi tiết, từ hình ảnh đến âm thanh, màu sắc. Nhà thơ vui mừng biết bao khi nhìn thấy cảnh “dân làng nô nức đón thuyền về”. Trong muôn vàn tiếng “ầm ĩ” trên bến, nhà thơ trân trọng một câu nói giản dị của ngư dân: “Ơn trời biển êm, thuyền đầy cá”. Đó là lời cảm ơn rất chân thành trước sự hồn nhiên, giản dị của những người lao động. Nghề chài lưới vươn mình giữa biển khơi, ai biết trước sẽ xảy ra bao nhiêu bất trắc, hiểm nguy của bão tố. Vì vậy, ngư dân không cần phải tin vào chính mình, mà họ vẫn phải dựa vào thiên nhiên. Người đọc bỗng cảm thấy một niềm hạnh phúc trào dâng, lan tỏa trong câu thơ:

Ơn trời biển lặng đầy cá

Cá tươi có thân màu trắng bạc.

Nhà thơ say sưa ngắm nhìn vẻ đẹp của các chàng trai:

Người đánh cá có làn da rám nắng

Toàn cơ thể có mùi của sự xa cách.

Đó là vẻ đẹp khỏe khoắn vừa thực vừa lãng mạn. Màu da đặc trưng của chàng trai quanh năm vật lộn với sóng biển, đầy nắng gió. Hình ảnh đẹp, ấm áp với cuộc đời bởi “toàn thân thở cùng hương xa”. Nhà thơ đã thơ hóa một hiện tượng bình thường trong đời thực: nước biển mặn mòi thấm vào da thịt người dân chài tạo nên hương vị riêng trên cơ thể họ, gợi lên một hình ảnh rất lãng mạn. Còn con thuyền được hình dung như một xác sống mệt mỏi, nằm “bất động” trên bến, lặng lẽ cảm nhận vị mặn của biển thấm vào xương tủy:

Xem thêm: Phân tích bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên (bài viết hay)

Con thuyền lặng thinh mỏi trở về nằm

Nghe chất muối thấm vào da thịt.

Trong câu thơ nhân hóa con thuyền, Tế Hanh đã khéo léo kết hợp hai hiện tượng: nước biển mặn mòi thấm sâu vào vỏ gỗ thuyền ngâm nước lâu ngày, tiếng lạo xạo của lòng thuyền ngâm muối khi phơi trên cát. . Phải chăng vị mặn mặn “thấm trong vỏ” của con thuyền hay đã thấm sâu vào da, thịt, tâm hồn thi nhân với bao cảm giác lâng lâng, ngỡ ngàng? Nếu không phải là người con làng chài, chắc chắn là một nhà thơ không thể viết nên những câu thơ hùng tráng như vậy!

Phần cuối là nỗi nhớ quê hương:

Giờ xa rồi lòng mãi nhớ

Màu nước trong xanh, đàn cá bạc, cánh buồm vôi…

Nỗi nhớ da diết trong xa vắng bật ra thành lời thơ giản dị, tự nhiên như lời tự đáy lòng: “Nhớ mùi quá!”. Người học trò xa quê nhớ quê nhớ màu “xanh” của nước, màu “bạc” của cá, màu “trắng” của cánh buồm vôi, hình ảnh “những con thuyền rẽ sóng sang biển”, nhưng nhớ. đặc biệt là “mùi mặn” đặc trưng của quê hương. Với Tế Hanh, mùi ấy là hương vị đậm đà của quê hương, là chất thơ giản dị, khỏe khoắn toát ra từ bức tranh thiên nhiên trong sáng, nên thơ và hùng vĩ của làng chài thân thuộc.

Nỗi nhớ quê hương phương xa trở thành dòng cảm xúc chảy suốt đời thơ Tế Hanh. Xóm chài nghèo trên một cù lao trên sông Trà Bồng “nước bao bọc, nửa ngày biển cách” đã nuôi dưỡng hồn thơ ông và trở thành điểm tựa để ông viết nên những vần thơ thiết tha, đau đáu. . Trong dòng cảm xúc ấy, “quê hương” là một khởi đầu rực rỡ cho sự thành công. Đoạn thơ mang âm hưởng khỏe khoắn, toát lên những cảm xúc táo bạo, trong sáng của nhà thơ Tế Hanh thời trai trẻ giữa khung trời thơ bao quanh.

Theo Nhungbaivanhay.vn


Bạn thấy bài viết Cảm nhận bài thơ Quê hương của Tế Hanh có giải quyết đươc vấn đề bạn tìm hiểu không?

Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường Họa Mi

Chuyên mục: Văn Mẫu Hay

Nguồn: Họa Mi

Related Articles

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Back to top button