Bình luận quan niệm của Nguyễn Trãi về nhân nghĩa trong câu thơ sau – Đề và văn mẫu 8

Bình luận về quan niệm nhân nghĩa của Nguyễn Trãi trong đoạn thơ sau – Đề và bài văn mẫu 8

Dạy


“Nhăn có nghĩa là ở trong hòa bình

Quân trừng phạt trước để trừ bạo”.

(Bình Ngô Đại Cáo)

Phân công

Nguyễn Trãi là nhà quân sự tài ba, nhà tư tưởng lớn của dân tộc Việt Nam. Cuộc đời ông đã cống hiến cho dân, cho nước, cho cuộc khởi nghĩa anh dũng chống quân Minh xâm lược. Sau khi đánh đuổi quân thù ra khỏi nước, Nguyễn Trãi đã thay Lê Lợi viết “Bình Ngô Đại Cáo” để thông báo rộng rãi với toàn dân về sự kiện lịch sử trọng đại này. Chiến công vang dội ấy được ông đúc kết bằng hai câu thơ nhẹ nhàng nhưng đầy tình người:

“Cốt lõi của nhân loại là được yên nghỉ

Quân trừng phạt trước để trừ bạo”.

Cùng với hai câu thơ ấy, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đã tỏa sáng và sống mãi với thời gian.

Hai câu thơ này có ý nghĩa rất sâu sắc. Nhân là thương người, kính người, tức là thuận theo lẽ phải. Yêu thương mọi người, kính trọng mọi người, đó là tình yêu của nhân dân. Yêu nước gắn liền với yêu đồng bào và xuất phát từ tính nhân văn. Vì vậy, nhân loại là đúng. Yêu nước thương dân thì phải làm cho dân ấm no, hạnh phúc. Muốn vậy, người lãnh đạo đất nước phải có lòng thương dân bị ức hiếp, hãm hại mà đem quân đi đánh kẻ có tội với dân (trừng phạt). Cầm gươm xuất binh cũng chỉ nhằm mục đích tiêu diệt bọn ác ôn, đem lại bình yên cho gia đình và nhân dân. Đội quân đó là đội quân của chính nghĩa, tư tưởng đó là tư tưởng của đạo đức. Quả thật, hai câu thơ của Nguyễn Trãi đã thể hiện một tư tưởng tiến bộ, tích cực, phù hợp với đạo lý của dân tộc. Xưa nước ta chịu ảnh hưởng Nho giáo của Trung Quốc, ai đọc Thánh hiền đều biết “ngũ thường” (năm điều rèn luyện): nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Trong đó tính nhân văn được đặt lên hàng đầu, khẳng định tầm quan trọng to lớn của nó.

Xem thêm: Tóm tắt truyện Hài kịch Thầy học làm sang – Đề và bài văn mẫu 8

Vì vậy, với mong muốn lãnh đạo nhân dân chống giặc, Nguyễn Trãi đã hết lòng đem nhân nghĩa trị dân. Ở đây, lý tưởng đạo đức của Nho giáo đã được Nguyễn Trãi tiếp thu theo truyền thống yêu nước thương nòi và yêu cầu không ngừng chống ngoại xâm của dân tộc mình. Người đã kết hợp chặt chẽ tư tưởng nhân nghĩa với tư tưởng yêu nước, thương dân. Vì vậy, tư tưởng cao đẹp của ông đã được nguyên Thủ tướng Phạm Văn Đồng ca ngợi: “Triết lý nhân nghĩa của Nguyễn Trãi suy cho cùng cũng chỉ là lòng yêu nước, thương dân, nhân nghĩa, nghĩa lớn nhất là phấn đấu đến cùng để đánh giặc ngoại xâm và diệt cường bạo. vì độc lập và hạnh phúc của nhân dân”. Lấy lòng yêu nước thương dân làm động lực, lấy độc lập tự do hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu, tức là Nguyễn Trãi đã đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết. Như vậy, suốt cuộc đời Người đã sống và chiến đấu vì nhân dân, vì mục đích, lý tưởng cao đẹp của mình. Dẫu hiểu rằng trong chiến tranh không tránh khỏi hy sinh, mất mát, nhưng Nguyễn Trãi luôn bảo vệ sự bình yên cho nhân dân: “Thà quân hiếu cả, cốt yên dân”.

Ta có thể thấy rõ tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đề cao tuyệt đối lòng yêu nước thương dân, đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết. Như vậy, Nguyễn Trãi đã cụ thể hóa một nguyên tắc lãnh đạo đất nước “lấy dân làm gốc”. Nhờ đó, đã tập hợp được sức mạnh toàn dân, sức mạnh đoàn kết, sức mạnh “đại nghĩa”, “tôn sư trọng đạo”. Trong “Bình Ngô Đại Cáo” ông viết:

Xem thêm: Bàn về mối quan hệ giữa học và hành


“Đem chính nghĩa thắng hung tàn

Dùng ý chí để thay thế bạo lực.”

“Đại nghĩa” thắng “tàn bạo”, “nhân ái” thay “bạo ngược”. Lời khẳng định chắc nịch này chứng tỏ Nguyễn Trãi đã vận dụng có hiệu quả lời dạy của người xưa. Tư tưởng nhân nghĩa của Người vừa ôn hòa, vừa mạnh mẽ, có sức thuyết phục.

Lấy nó làm mũi nhọn tiến công, Nguyễn Trãi đã thực hiện được hoài bão cả đời: làm một việc gì đó để đồng bào bớt khổ. Trải qua 10 năm kháng chiến gian khổ, dưới sự lãnh đạo của ông và Lê Lợi, nghĩa quân Lam Sơn đã đánh thắng quân thù, mang lại hạnh phúc yên vui cho nhân dân, thái bình cho đất nước. Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đem lại sức sống! Đây là một ý tưởng có giá trị vĩnh cửu.

Không chỉ vậy, Nguyễn Trãi còn thể hiện ý chí hòa bình, đồng cảm với nỗi khổ đau của nhân dân hai nước. Bằng trái tim xúc động, ông hiểu rằng những người lính trong đội quân xâm lược chỉ là những người dân bình thường, lương thiện, hơn nữa còn là nạn nhân của chiến tranh dưới bàn tay cường quyền của bọn thống trị. Anh đồng cảm với nỗi khổ của người mẹ mất con và người vợ mất chồng. Vì vậy, ông đưa nhân loại đến với “đạo hiếu thực sự”, không phải đạo hiếu mà mục đích là “trừ bạo, yên dân”. Khi quân giặc buông giáo đầu hàng, ông đã đem nhân nghĩa “mở đường báo hiếu”, tha mạng cho tướng giặc bị cầm tù, khiến chúng vừa kính vừa sợ: “Trời không giết hại, lòng ta đã mở đường hiếu”. ,

Mã Kỳ, Phương Chính cung cấp năm trăm chiếc thuyền, ra biển mà hồn còn như mất.

Vương Thông, Mã Anh phát mấy vạn ngựa, về nước mà tim đập chân run!

Xem thêm: Một giấc mơ thú vị, ngông nghênh, lãng mạn (Về bài thơ Muốn làm Cuội của Tản Đà) – Bình giảng Ngữ Văn 8

Làm được như vậy, Nguyễn Trãi vừa tránh được đổ máu về sau, vừa xây dựng được mối quan hệ hòa bình giữa hai dân tộc. Không có gì kỳ diệu hơn tình người:

Không chỉ ảo thuật

Nó cũng chưa từng thấy trước đây.”

Với tư tưởng nhân nghĩa đúng đắn ấy, ông đã cùng Lê Lợi lãnh đạo cuộc kháng chiến vượt qua trăm ngàn gian khổ đi đến thắng lợi hoàn toàn. Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi rất tiến bộ, thể hiện cái nhìn sâu sắc và tấm lòng nhân nghĩa của bậc anh hùng, như Lê Thánh Tông đã đánh giá:

“Trí Bác trong sáng”.

Tuy nhiên, lịch sử không chỉ có những chiến thắng của Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung mà còn có những thất bại đau đớn đưa đất nước vào vòng nô lệ. Vì không biết dựa vào dân, lấy dân làm gốc nên các triều đại nhà Hồ, nhà Nguyễn đều sụp đổ thảm hại. Từ bài học xương máu đó, chúng ta mới thấy hết giá trị tư tưởng nhân văn.

Phát huy truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, Đảng ta và Bác Hồ kính yêu đã lãnh đạo nhân dân ta đánh thắng giặc Pháp, giặc Mỹ, làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ và đại thắng mùa Xuân năm 1975.

Nguyễn Trãi thực sự là một anh hùng dân tộc văn võ song toàn. Cùng với “Đại cáo bình Ngô” và tư tưởng nhân nghĩa cao cả, cao đẹp, ông sống mãi trong ký ức và tình cảm của nhân dân Việt Nam như lời ca ngợi của Nguyễn Mộng Tuân ““Cổ quốc hoa không tiền” ( Dựng nước và làm việc, cho nước không ai đẹp hơn Người) Ngày nay, trong công cuộc dựng nước, đổi mới và giữ nước, tư tưởng lấy dân làm gốc càng có sức mạnh hơn bao giờ.

Tags:Văn 8

Theo Nhungbaivanhay.vn


Bạn thấy bài viết Bình luận quan niệm của Nguyễn Trãi về nhân nghĩa trong câu thơ sau – Đề và văn mẫu 8 có giải quyết đươc vấn đề bạn tìm hiểu không?

Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường Họa Mi

Chuyên mục: Văn Mẫu Hay

Nguồn: Họa Mi

Related Articles

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Back to top button