Bình giảng bài thơ “Tiến sĩ giấy” – Bài 2 của Nguyễn Khuyến
Các bài văn mẫu lớp 11
Bình giảng bài thơ “Thầy thuốc giấy” – Bài 2 của Nguyễn Khuyến
Bình giảng bài thơ “Thầy thuốc giấy” – Bài 2 của Nguyễn Khuyến
Dạy
Nguyễn Khuyến có hơn 50 câu đối, thơ trào phúng; Câu đối nào, câu thơ nào cũng hóm hỉnh mà ý tứ sâu sắc:
‘Không có gì sai khi chèo thuyền,
Quân đóng có khác gì thằng hề đâu”.
(Lời bài hát vợ phường chèo)
“Bạn giữ miệng của mọi người như một con bọ cạp,
Cổ tích là những gì bạn muốn trả tiền cho.
(Thi Bồ Tát)
“Trời đất thương chàng Bách quỳ,
Giang sơn vui vẻ một mình.”
(Nhận Tây)
Bài “Giấy tiến sĩ” – bài 2 cũng là một bài thơ trào phúng độc đáo của Nguyễn Khuyến, được viết theo thể thơ Đường luật bảy chữ:
“Cùng cờ, cùng biển, cùng thắt lưng,
Còn kêu anh nghèo ai thua kém ai.
Mảnh giấy tạo nên áo giáp,
Điểm nhấn trên khuôn mặt rõ ràng.
Sao cái áo nhẹ thế?
Giá uy tín đó là một món hời!
Chiếc ghế dù màu xanh lá cây ngồi thanh lịch,
Hãy nghĩ rằng đồ chơi thực sự trở thành đồ chơi!”.
“Tiến sĩ giấy” hay còn gọi là “ông đồ tháng 8 hè” – món đồ chơi trong Tết Trung thu của trẻ em. Bài thơ có hai tầng ý nghĩa: Bài vịnh ông Nghè tháng tám, qua đó Nguyễn Khuyến châm biếm bọn tiến sĩ giấy – lưu manh, bất tài, vô dụng – trong xã hội thực dân nửa phong kiến.
Hình ảnh ông Tám, món đồ chơi của trẻ em được tác giả miêu tả cụ thể, sinh động và đẹp đẽ qua nhiều chi tiết: cờ, biển, cân đai, mảnh giấy, nét son, bộ quần áo, chiếc chõng xanh. ngồi bảnh bao. Câu thứ tám rất hóm hỉnh. Anh cho rằng August chỉ là đồ chơi nhưng lại khiến người ta tưởng là thật: “Tưởng đồ thật hóa thành đồ chơi”.
Màu sắc rực rỡ, tư thế “ngồi công tử” rất ngộ nghĩnh. Một món đồ chơi trẻ em làm được điều đó phải nói là khéo tay. Vì vậy, trong bài “Tiến sĩ giấy” – bài 1, Nguyễn Khuyến viết:
“Rõ ràng là quan giỏi vẽ mánh khóe,
Vớ vẩn anh mà giữ thằng nhỏ.
Bộ râu đó bao nhiêu tuổi,
Giấy tờ hộ khẩu đáng giá vài xu”…
Tầng ý nghĩa thứ hai của bài “Tiến sĩ giấy” thể hiện cái nhìn sắc sảo của tác giả đối với thân phận của những kẻ bần cùng giữa thời đại “chữ Nho có gì sai” (Tú Xương).
Hai câu, từ “cũng” được lặp lại bốn lần khiến giọng điệu giễu nhại nổi lên cùng nụ cười giễu cợt về những lá cờ biển, thắt lưng,… của các quan nhạc. Bộ trang phục ấy, lá cờ ấy… đều do vua ban tặng “không thua kém ai”. Việc so sánh để đặt câu hỏi này cũng ngụ ý chế giễu:
“Cùng cờ, cùng biển, cùng thắt lưng,
Còn kêu anh nghèo ai thua ai?”.
“Có kém ai” về “quà tặng”, hay “kém ai” về tài năng?
Hai câu thực nói về “bản thân giáp bảng” và “bộ mặt văn chương” của ông Nghè. “Thân thiết giáp” dù chỉ là “tờ giấy mỏng” cũng được “chế tạo”. “Mặt thơ” chỉ là “tô son”, “vẽ, “đánh dấu”. Câu ba và câu bốn đối lập nhau một cách tài tình.Từ ngữ, giọng điệu gợi cho người đọc cảm giác tầm thường của lời văn sĩ.
Giấy trong xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Danh tiếng hư không của ông chỉ là “tờ giấy” xé nát, chỉ là “vết son” dễ nhòe!
“Mẩu giấy tạo nên cơ thể giúp háng,
Nét son làm nổi bật khuôn mặt văn nhân.”
Cũng nói về thói trăng hoa của kẻ nghèo, có lúc nhà thơ giễu cợt:
“Người đàn ông có râu đó bao nhiêu tuổi,
Giấy tờ hộ khẩu đáng giá vài xu! “.
(Tiến sĩ giấy – bài 1)
Cặp luận là lời nhận xét, đánh giá về y phục, danh tiếng của ông: “nhẹ thế nào ấy”, “thế mới hay”. Tốt là từ cũ, có nghĩa là dễ dàng, rẻ tiền. Ánh sáng và mặc cả cho là tầm thường. Không phải tài năng thực sự, tên thật nên nhẹ, vì vậy nó là một món hời. Nhẹ và rẻ vì nó vô dụng và chỉ phù phiếm và hương vị. Tác giả sử dụng câu nghi vấn và câu cảm thán khẳng định, tương phản nhau rất tài tình để châm biếm, chế giễu; Giọng thơ nhẹ nhàng nhưng đầy mỉa mai:
“Sao áo nhẹ thế?
Cái giá danh giá đó là một món hời.”
Hai câu kết, tác giả sử dụng nghệ thuật tương phản rất sắc sảo:
“Ghế ô xanh ngồi chênh vênh,
Hãy nghĩ rằng đồ thật biến thành đồ chơi.”
Dáng ngồi rất uy nghiêm: “ngồi” trên “ghế chéo”, “dưới ô xanh”. Giả vờ kiêu ngạo và tự phụ, tự phụ về quyền quý và sự giàu có. Nhưng “chỉ là đồ chơi”. Đối chiếu ở câu bảy và câu tám, đối chiếu “đồ thật” với “đồ chơi”. Ngược lại nhằm châm biếm thói phù phiếm, thị hiếu của những tiến sĩ giấy dưới thời Pháp thuộc.
Gần một nghìn năm qua, nền khoa bảng nước ta đã đào tạo hàng nghìn tiến sĩ. Có biết bao bậc thầy đem đức làm rạng danh đất nước, dân tộc, lưu danh sử sách. Dưới ách đô hộ của Pháp, cả dân tộc là nô lệ của xứ sở, để rồi “Anh nghèo, anh cũng nằm”, hay chỉ trở thành phù hoa, phù phiếm. Nguyễn Khuyến là một nhà Nho tài ba đã đỗ đầu ba kỳ thi đua, thi đua, tư gia. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh đất nước bị ngoại bang đô hộ. nhiều lúc anh cảm thấy “ngại ngùng”:
“Sách có ích gì cho ngày đó,
Xiêm áo xấu hổ nghĩ lại thân già”.
(Ngày xuân kể cho em nghe)
Đôi khi anh tự cười mình, cười sự phù phiếm của mình:
“Nghĩ rằng tôi kinh tởm với chính mình,
Điều tương tự cũng xảy ra với bia xanh và bảng vàng.”
(Tự chảy)
“Tiến sĩ giấy” là một bức tranh biếm họa chế giễu, châm biếm những kẻ bần cùng ở nước ta thế kỷ 19, tuy “Cùng cờ, cùng biển, cùng thắt lưng” nhưng đó chỉ là “vở kịch” của Toàn quyền. , Sứ thần, Đại sứ – chỉ đàn ông Tây bụng phệ.
Tiếng cười trong “Bác sĩ giấy” là tiếng cười trong nước mắt. Đoạn thơ thể hiện nghệ thuật dùng từ, đối xứng, tạo âm điệu rất điêu luyện, đúng là Tam Nguyên Yên Đổ đã xuất khẩu thành thơ.
Ngày nay, trong xã hội đã và đang xuất hiện nhiều tiến sĩ giấy mà báo chí đã từng nổi tiếng. Đọc bài thơ này càng khâm phục tài thơ của Nguyễn Khuyến
Thu Trang
Bạn thấy bài viết Bình giảng bài thơ “Tiến sĩ giấy” – Bài 2 của Nguyễn Khuyến có giải quyết đươc vấn đề bạn tìm hiểu không?
Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường Họa Mi
Chuyên mục: Văn Mẫu Lớp 11
Nguồn: Họa Mi